Khu di tích thành nhà Hồ Thành_nhà_Hồ

Khu di tích thành nhà Hồ với trung tâm là thành nhà Hồ, nằm ở phía tây huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, gần quốc lộ 45. Khu di tích này nằm giữa sông Mãsông Bưởi, thuộc địa giới hành chính các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Thành, Vĩnh Long, Vĩnh Yên, Vĩnh Quang, Ninh Khang, thị trấn Vĩnh Lộc, một phần xã Vĩnh Phúc (huyện Vĩnh Lộc) và một phần xã Thạch Long (huyện Thạch Thành). Ngoài thành nhà Hồ, được gọi là thành trong, khu di tích này có:

Tường thành và Hào thành

Từ bên ngoài, có thể thấy toàn bộ các bức tường của tòa thành được xây bằng các khối đá khổng lồ có hình khối chữ nhật hoặc gần vuông, xếp không trùng mạch theo hình chữ Công "I". Trên thực tế, tường thành được cấu tạo bởi ba lớp gắn kết chặt chẽ với nhau bằng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt:

Lớp ngoài: tường thành được xây dựng bằng "những khối đá vôi to lớn, được đẽo gọt và ghép một cách tài tình"(13). Tất cả các khối đá xây được đẽo gọt công phu thành các khối vuông thành sắc cạnh, với kích thước trung bình 2,2 x 1,5 x 1,2m, cá biệt có khối có kích thước tới 4,2 x 1,7 x 1,5m và 5,1 x 1 x 1,2m. Những khối đá lớn nhất nặng tới khoảng 26,7 tấn.

Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết, năm Tân Tỵ (1401) "Hán Thương hạ lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành. Trước đây xây thành Tây Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ, đến đây mới xây trên bằng gạch, dưới bằng đá"(14). Đến nay, qua nghiên cứu sưu tầm, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ đã phát hiện có 294 địa danh hành chính trong cả nước đóng góp xây dựng Thành Nhà Hồ.

Để hoàn chỉnh công trình này, con số ước tính hơn 100,000m3 đất đã được đào đắp, hơn 20,000m3 đá, trong đó có nhiều khối đá nặng trên 20 tấn đã được khai thác, vận chuyển và lắp đặt.

Bao quanh các bức tường thành đồ sộ là hệ thống hào thành, như thường thấy ở các tòa thành Đông Á. Ngày nay, nhiều phần của hào thành đã bị lấp cạn. Tuy nhiên, vẫn có thể nhận thấy rất rõ dấu tích của hào thành ở bốn phía với chiều rộng trung bình 50m.

La Thành

Bài chi tiết: La Thành Tây Đô

Bao quanh toàn bộ tòa thành đá và hào thành là La Thành.

Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Hồ Quý Ly "sai Trần Ninh đốc suất người phủ Thanh Hóa trồng tre gai ở phía Tây thành, phía Nam từ Đốn Sơn, phía Bắc từ An Tôn đến tận cửa Bào Đàm, phía Tây từ chợ Khả Lãng ở Vực Sơn đến sông Lỗi Giang (sông Mã), vây quanh làm tòa thành lớn bọc phía ngoài. Dân chúng ai lấy trộm măng thì bị xử tử"[4].

Đại Nam nhất thống chí chép: "phía ngoài thành lại đắp đất làm La Thành, phía tả từ tổng Cổ Biện, phía Đông qua các xã Bút Sơn và Cổ Điệp ven theo sông Bảo (nay là sông Bưởi) chạy về núi Đốn Sơn, phía hữu từ tổng Quan Hoàng, huyện Cẩm Thủy theo ven sông Mã chạy về Đông thẳng đến núi Yên Tôn mấy vạn trượng" (Đại Nam nhất thống chí 2006: 313 - 314).

La Thành hiện còn là một tòa thành đất cao khoảng 6m, mặt cắt dạng hình thang với bề mặt rộng 9,20m, chân thành rộng khoảng 37m. Mặt ngoài dốc đứng, phía trong thoai thoải kiểu bậc thang, mỗi bậc cao 1,50m, một số vị trí có trộn thêm sạn sỏi gia cố.

Kết quả thám sát năm 2010 ở khu vực thôn Xuân Áng, xã Vĩnh Long cho thấy, đất đắp La Thành bằng các loại đất sét màu vàng, màu xám hoặc xám xanh có lẫn các đá sạn laterít.

Một đoạn La thành - Thành Nhà Hồ

Toàn bộ La Thành được đào đắp dựa theo địa hình tự nhiên, có đoạn thì nối liền với núi đá, lấy núi đá làm bức tường thành thiên nhiên hùng vĩ, có đoạn thì nương theo các dòng sông.

Ngày nay, trên thực địa, La Thành vẫn còn dấu vết từ núi Đốn Sơn (xã Vĩnh Thành) đến núi Hắc Khuyển (xã Vĩnh Long), các núi Xuân Đài, Trác Phong, Tiến Sỹ (xã Vĩnh Ninh), núi Kim Ngọ (xã Vĩnh Tiến), núi Ngưu Ngọa, núi Voi (Xã Vĩnh Quang). Trong đó có những đoạn là đê của sông Bưởi và sông Mã (hình 50-52).

Sự kiên cố, cấu trúc lũy thành với mặt ngoài thẳng đứng trong thoai thoải cho thấy rõ tính chất phòng vệ quân sự của La Thành. Mặt khác La Thành cũng triệt để nối các quả núi tự nhiên như núi Voi, núi Đốn, nhiều đoạn chạy theo thế uốn của sông Bưởi và sông Mã mang thêm chức năng là đê phòng lũ lụt cho toàn bộ kinh thành. Đây cũng là truyền thống đắp thành của người Việt đã từng hiện diện ở các di tích như thành Cổ Loa (Hà Nội) thế kỷ 3 trước CN, thành Hoa Lư (Ninh Bình) thế kỷ 10, thành Thăng Long thể kỷ 11 – 18.

Nhiều đoạn La Thành trải qua 6 thế kỷ vẫn còn khá nguyên vẹn với các lũy tre trải dài bát ngát, tương truyền cũng là dấu tích lâu đời gợi nhớ đến việc nhà Hồ cho trồng tre gai bảo vệ kinh thành cuối thế kỷ 14.[5]

Đàn Nam Giao

Giếng Vua, Nam Giao - Thành Nhà Hồ

Ở phía Nam kinh thành, trong các năm 2006 – 2010, khảo cổ học đã tập trung nghiên cứu khu di tích đàn tế Nam Giao.

Đại Việt sử ký toàn thư chép năm Nhâm Ngọ (1402):"Tháng 8, Hán Thương sai đắp đàn Giao ở núi Đốn Sơn để làm lễ tế Giao. Đại xá" (Đại Việt sử ký toàn thư 1998a: 203).

Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép việc xây dựng đàn tế Nam Giao năm 1402. Khâm định Việt sử thông giám cương mục thời Nguyễn cũng chép: "Đến nay Hán Thương mới đắp đàn Giao ở Đốn Sơn, chọn ngày lành, đi xe Vân Long ra cửa Nam thành, trăm quan và cung tần, mệnh phụ theo thứ tự đi sau v.v..." (Việt sử thông giám cương mục 1960:40).

Ngói đầu đao - Thành Nhà Hồ

Trong các nghi lễ của các kinh đô phương Đông cổ truyền, đàn Nam Giao và nghi thức tế lễ Nam Giao hàng năm của các vương triều là một bộ phận văn hóa tinh thần quan trọng vào bậc nhất nhằm cầu mong cho đất nước thịnh trị, vương triều trường tồn.

Bởi vậy, trong việc kiến thiết kinh đô, [[nhà Hồ]] đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng đàn tế Nam Giao. Đàn tế được xây dựng ở phía Nam Thành Nhà Hồ, phía trong La Thành, dựa theo sườn Tây Nam núi Đốn Sơn.

Dấu tích kiến trúc đàn tế đã xuất lộ chạy theo hướng Bắc – Nam là 250m, hướng Đông – Tây là 150m với tổng diện tích 35.000m2.

Thống đất nung - Thành Nhà Hồ

Đàn được chia làm nhiều tầng giật cấp cao dần lên, trong đó tầng đàn trung tâm cao 21,70m so với mực nước biển, chân đàn có độ cao khoảng 10,50m so với mực nước biển. Hiện nay, bước đầu đã khai quật được khoảng 15.000m2 và phát lộ được cấu trúc tổng thể của phần đàn trung tâm bao gồm 3 vòng tường đàn bao bọc lẫn nhau.

+ Vòng đàn ngoài cùng đã xuất lộ một phần dài 145m, rộng 113m có hai đầu lượn tròn.

+ Vòng đàn giữa gần hình vuông 65m x 65m.

+ Vòng đàn trong cùng hình đa giác (60,60m x 52m) có hai cạnh trên vát chéo.

Toàn bộ 3 vòng đàn trên đây ôm trọn toàn bộ nền đàn tế hình chữ nhật 23,60m x 17m. Trong lòng nền đàn có dấu tích đàn tế hình tròn (Viên đàn), đường kính 4,75m.

Nền đàn được đầm nện bằng các loại đá dăm núi, móng tường đàn và tường đàn được xây dựng bằng các loại đá xanh và gạch ở hai bên, ở giữa nhồi đất. Tường đàn cómái lợp các loại ngói mũi sen, ngói mũi lá và ngói âm dương. Mặt nền đàn được lát bằng loại gạch vuông cỡ lớn. Các đường đi trong đàn được lát đá.

Trong khu vực đàn tế còn tìm thấy dấu tích của hàng chục nền móng của các kiến trúc phụ, 5 cửa, dấu tích đường đi và dấu tích của 10 cống nước được xây dựng và bố trí hết sức khoa học nhằm đảm bảo cho việc tiêu thoát nước cho một công trình kiến trúc có diện tích rộng hàng chục nghìn mét vuông.

Góc Đông Nam đã tìm thấy một giếng nước lớn có cấu trúc 2 phần: phần thành giếng được xây bằng các khối đá có mặt bằng hình vuông (13m x 13m) có bậc đi xuống nhỏ giật vào trong lòng theo lối "thượng thách hạ thu", phần lòng giếng hình tròn, mặt cắt hình phễu, phần miệng tròn có đường kính khoảng 6,50m, độ sâu tính từ miệng giếng vuông 4,90m (hình 138-151).

Với tổng diện tích trên 35.000m2, có thể nói Nam Giao là một kiến trúc đàn tế khá hoành tráng trong tổng thể khu di tích Thành Nhà Hồ. Không những thế, qua những di vật còn lại, chúng ta còn thấy Nam Giao cũng được trang trí khá độc đáo ở trên các kiến trúc có mái. Đó là thành bậc đá chạm sấu thần, tượng đầu chim phượng, uyên ương, hệ thống lá đề, hệ thống gạch trang trí chạm rồng, hoa cúc. nhiều mô típ cho thấy có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của nghệ thuật Phật giáo trong trang trí Nam Giao. Trong thời đại hạn chế Phật giáo thì đây cũng là điều hết sức đáng lưu ý của di tích đàn tế Nam Giao nói riêng và nghệ thuật thời Hồ nói chung (hình 161-171).

Thêm vào đó, các phần núi non phía sau đàn đều được lưu giữ khá nguyên vẹn kết hợp hài hòa với các thành phần kiến trúc đàn tế, làm tăng thêm vẻ đẹp, tính hấp dẫn riêng có của đàn tế Nam Giao Thành Nhà Hồ.

Đền thờ nàng Bình Khương

Thuộc địa phận thôn Đông Môn, xã Vĩnh Long, nằm sát tường phía Đông của thành trong Thành Nhà Hồ. Đền là nơi thờ nàng Bình Khương phu nhân của Cống sinh Trần Công Sỹ, một trong những người chỉ huy xây dựng tường thành phía đông của thành Tây Đô.

Đền có diện tích 600m2, kiến trúc gồm tiền đường và hậu cung. Hiện nay trong đền còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như: Phiến đá – kiêm thần vị thờ nàng Bình Khương, bia đá dựng năm Thành Thái thứ 15 (1903) do Vương Duy Trinh soạn ghi sự tích Bình Khương và Cống Sinh; bia đá dựng năm Thành Thái thứ 15 (1903) do Phan Hữu Nguyên soạn ghi nội dung ca tụng Bình Khương và bia trùng tu miếu Bình Khương dựng năm Bảo Đại thứ 5 (1930).

Đền được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh năm 1995.

Đình Đông Môn

Bài chi tiết: Đình Đông Môn

Nằm cách cổng Đông Thành Nhà Hồ khoảng 150m về phía Đông, thuộc làng Đông Môn, xã Vĩnh Long. Đây là ngôi đình lớn, niên đại thời Nguyễn (thế kỷ 19), và có giá trị nghệ thuật cao. Tại ngôi đình còn lưu giữ một số hiện vật liên quan đến di tích Thành Nhà Hồ và nhiều sinh hoạt truyền thống gắn với ngôi làng cổ của kinh đô xưa. Từ năm 2007 đến năm 2009 đình được trùng tu, tôn tạo.

Đình được xếp hạng di tích lịch sử kiến trúc cấp tỉnh năm 1992.

Nhà cổ gia đình ông Phạm Ngọc Tùng: Thuộc làng Tây Giai, xã Vĩnh Tiến, cách cổng Tây Thành Nhà Hồ 200m về phía Tây. Ngôi nhà này được xây dựng năm 1810, về mặt kiến trúc nhà cổ đã được UNESCO công nhận là một trong 10 nhà cổ dân gian tiêu biểu nhất của Việt Nam. Năm 2002 tổ chức JICA của Nhật Bản đầu tư kinh phí nghiên cứu, bảo tồn, trùng tu di tích này.

Ngoài nhà cổ ông Phạm Ngọc Tùng, trong các làng cổ ở khu vực đệm còn bảo tồn rất nhiều các nhà cổ truyền thống (hiện là nhà ở của nhân dân), có niên đại thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20.

  • Đền Tam Tổng:

Thuộc địa phận làng Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, cách Thành Nhà Hồ khoảng 400m về phía Nam. Sau Hội thề Đốn Sơn (1399), Trần Khát Chân mất, nhân dân nhiều nơi thương tiếc lập đền thờ ông. Ba tổng: Bỉnh Bút, Cao Mật, Hồ Nam thuộc huyện Vĩnh Lộc xưa tôn ông làm Thành hoàng chung. Hàng năm lễ lội đền Tam Tổng diễn ra vào ngày 24/4 Âm lịch, có nhiều trò diễn mô tả văn hoá truyền thống của vùng đất kinh đô xưa. Khu vực đền có diện tích 1500m2, lần trùng tu, tôn tạo gần đây nhất là năm 2005. Đền được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh năm 1992.

  • Hồ Mỹ Đàm:

Mau An Tôn còn có tên khác là Hồ Mỹ Đàm, Hồ Mỹ Xuyên hay Mau Rẹ hiện thuộc cánh đồng làng Mỹ Xuyên và làng Phú Yên, xã Vĩnh Yên, cách Thành Nhà Hồ khoảng 1,5km về hướng Tây Bắc. Theo truyền thuyết hồ chính là đoạn sông đào của nhà Hồ với mục đích mở đường thuỷ nối liền giữa thành Tây Đô với sông Mã. Ngày nay mau còn bảo tồn chiều dài khoảng 2km, rộng 100m với nhiều loài sinh vật độc đáo nổi tiếng của vùng đất cố đô.

  • Hang Nàng và núi An Tôn:

Hang Nàng nằm trên núi An Tôn thuộc làng Yên Tôn Thượng, xã Vĩnh Yên, cách Thành Nhà Hồ khoảng 2,5 km về hướng Tây Bắc. Hang còn có tên gọi là động Ngọc Thanh, nằm ở độ cao khoảng 20m so với đồng bằng. Theo truyền thuyết hang là nơi Hồ Quý Ly giam giữ vua Trần Thiếu đế và hai nàng hầu.

Núi An Tôn thuộc địa phận xã Vĩnh Yên (vào thời Trần có tên là động An Tôn), cách Thành Nhà Hồ khoảng 2km về phía Tây. Núi có hai đỉnh cao nhất là 122m và 114m so với mực nước biển. Nhiều giả thuyết và tư liệu cho biết đá xây dựng Thành Nhà Hồ được khai thác tại dãy núi này.

Có tên chữ là Tường Vân tự, thuộc xã Vĩnh Thành, cách Thành Nhà Hồ khoảng 2,5 km về phía Đông Nam. Chùa được xây dựng dưới chân núi Đốn Sơn vào thời vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377). Tổng thể kiến trúc chùa hiện khoảng 2ha, bao gồm các dãy nhà riêng biệt nằm trên 2 tầng thế đất khác nhau, đó là: Nhà Tứ Ân, nhà Phật điện, nhà Mẫu, nhà Điêu túc.

Chùa được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 2009.

  • Đền thờ Trần Khát Chân:

Thuộc địa phận thôn Cao Mật, xã Vĩnh Thành, cách Thành Nhà Hồ khoảng 2,5km về phía Đông Nam. Đền được xây dựng ở sườn Đông Bắc núi Đốn Sơn vào thế kỷ 16, thờ Đức Thánh Lưỡng - Thượng tướng Trần Khát Chân, vị tướng có nhiều công lao đánh giặc dưới thời nhà Trần và có công xây dựng kinh thành Tây Đô (thời Hồ). Ngày nay, di tích vẫn còn giữ được nhiều văn bản Hán Nôm cổ (hơn 20 bản sắc phong, các hoành phi, câu đối) và các đồ thờ bằng gỗ đặc biệt có giá trị. Đền được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2001.

  • Chùa Du Anh:

Có tên gọi khác là chùa Thông, được xây dựng dưới chân lèn đá phía Tây núi Xuân Đài, cách Thành Nhà Hồ khoảng 4,5km về phía Tây Nam thuộc địa phận xã Vĩnh Ninh. Tương truyền công chúa Du Anh (thời Trần) đi du ngoạn, thấy cảnh núi sông nơi đây hữu tình đã cho xây dựng chùa vào năm 1270 và lấy tên mình để đặt tên chùa. Hiện nay, trong chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị thời Trần (thế kỷ 14) như: Sư tử đá, nghê đá, voi đá. Đặc biệt là bia đá 4 mặt được tạc từ đá gốc nguyên khối do trạng Bùng Phùng Khắc Khoan soạn văn bia ghi việc trùng tu chùa năm 1606 đời vua Lê Kính Tông. Chùa được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 2009.

  • Động Hồ Công:

Nằm trên núi Xuân Đài, xã Vĩnh Ninh, cách Thành Nhà Hồ khoảng 4,5km về hướng Tây Nam. Tương truyền động Hồ Công chính là nơi luyện thuốc tu tiên của thầy trò Hồ Công và Đồng Tử. Cảnh sắc núi sông hòa quyện, hang động kỳ ảo nên từ xưa động được mệnh danh là "Nam thiên tam thập lục động, Hồ Công đệ nhất" (Ba mươi sáu động của nước Nam, động Hồ Công là nhất). Động nằm ở độ cao khoảng 50m - 60m so với đồng bằng. Nhiều bậc tao nhân trong lịch sử đã đến tham quan và đề thơ ca ngợi cảnh đẹp nơi đây, trong đó tiêu biểu như vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và Tĩnh Vương Trịnh Sâm…Hiện còn khoảng hai mươi di văn Hán khắc trên vách động. Đây là một di sản văn hoá vô cùng quý giá góp phần tạo nên một "Hồ Công đệ nhất".

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thành_nhà_Hồ http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110628-thanh-nha... http://whc.unesco.org/en/list/1358 http://whc.unesco.org/en/tentativelists/5073/ //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... http://www.nto.com.vn/index.asp?m=kt&idn=1610 http://www.thanhhoa.gov.vn/web/guest/gtc/tcdl/nhah... http://www.thanhnhaho.vn http://www.thanhnhaho.vn/Default.aspx?c=guest/band... http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/444273/Kham-pha... http://vtv.vn/Article/Get/Thanh-Nha-Ho-sap-tro-tha...